Tin tức

Chủ quyền biển đảo Việt Nam qua các bản đồ cổ 04/07/2011

0
* Theo tài liệu của các chúa Nguyễn
Trong sách Hồng Đức bản đồ có 3 bản đồ liên quan đến bờ biển, Biển Đông và hải đảo:
- An Nam quốc vẽ toàn thể lãnh thổ Đại Việt về thời Hồng Đức - 1490.
- Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư gồm nhiều bản đồ, trong có những bản đồ vẽ đường lối đi từ Thăng Long đến nước Chiêm Thành.
- Bình Nam đồ do Đoan quận công Bùi Thế Đạt vẽ đường lối đi từ Chiêm Thành đến biên giới Cao Miên.

Trong Phủ biên tạp lục (1777), Lê Quý Đôn viết: "Xã An Vĩnh thuộc huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi ở gần bãi biển. Về hướng Đông Bắc ngoài biển có nhiều đảo và nhiều núi hơn 130 đỉnh... ở trong các hòn đảo có bến Cát Vàng... Ngày trước, họ Nguyễn có thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người ở xã An Vĩnh... Họ Nguyễn còn thiết lập thêm đội Bắc Hải ...".
Hai bản đồ An Nam quốc (Hồng Đức 1490) và Vương quốc An Nam (Alexandre de Rhodes 1650) biểu hiện khá rõ bờ biển, biển Đông và hải đảo Việt Nam đương thời.


An Nam Đại quốc họa đồ

* Theo tài liệu của triều Nguyễn

Ngày 1 tháng 7 năm Quí Hợi (1803), sử Đại Nam thực lục chính biên ghi: Gia Long "lấy cai cơ Võ Văn Phú làm thủ ngữ của biển Sa Kỳ (Quảng Ngãi), sai mộ dân ngoại tịch làm đội Hoàng Sa".

Đầu năm 1815, sử Đại Nam thực lục chính biên ghi: Gia Long "sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển".

Cuối tháng 6 năm Đinh Sửu (1817), Gia Long "sai bọn Hữu tham tri bộ Công Nguyễn Đức Huyên và Tả tham tri Đoàn Viết Nguyên làm sách Duyên hải lục, phía nam đến Hà Tiên phía bắc đến Yên Quảng. Phàm các cửa biển, mực nước khi triều lên triều xuống sâu nông thế nào, dặm đường xa gần bao nhiêu, đều phải chép cả. (Bộ sách ấy gồm 2 quyển, chép cả thảy 4 dinh, 15 trấn, 143 cửa biển, dài 5.902 dặm, mỗi dặm là 540 trượng)".

Tháng 8 năm Quý Tỵ (1833) sử Đại Nam thực lục chính biên ghi: Vua Minh Mạng bảo bộ Công rằng: “Trong hải phận Quảng Ngãi, có 1 dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường bị hại! (mắc cạn). Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng nhiều cây cối".

Tháng 3 năm Giáp Ngọ (1834), sử Đại Nam thực lục chính biên ghi: Minh Mạng "sai Giám thành đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ...

Tháng 6 năm Ất Mùi (1835), sử Đại Nam thực lục chính biên ghi "dựng đền ở đảo Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi. Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng... Năm ngoái, vua (Minh Mạng) toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được. Đến đây, mới sai cai đội thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ giám thành cùng phu thuyền 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyển chở vật liệu đến dựng miếu. Bên tả miếu dựng bia đá, phía trước miếu xây bình phong, 10 ngày làm xong rồi về".

Hai bản đồ An Nam đại quốc họa đồ (Taberd 1838) và Đại Nam nhất thống toàn đồ (1840) thể hiện khá đầy đủ tình hình bờ biển - biển Đông - hải đảo Việt Nam đương thời.

* Theo tài liệu của Pháp

Pháp bắt đầu vẽ bản đồ Việt Nam theo kỹ thuật khoa học hơn cho đúng kinh tuyến và vĩ tuyến. Về phần bờ biển - biển Đông - hải đảo, Pháp trao nhiệm vụ cho hải quân Pháp đo đạc và thực hiện các đồ bản. Những bản đồ này ghi cả độ sâu gần khắp biển Đông rộng khoảng 1 triệu km2. Khoảng 100 bản đồ cỡ 54 x 75cm và 74 x 104cm vẽ rõ bờ biển, biển Đông và hải đảo, kể cả Hoàng Sa và Trường Sa, thực hiện từ 1884 đến 1930.

* Những bản đồ thế giới có vẽ Việt Nam, Biển Đông với Hoàng Sa - Trường Sa và ghi bờ biển là ở Việt Nam

Năm 1525, Diogo Ribeiro vẽ bản đồ nước ta với biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa mang tên gọi là Pracel rồi sau đổi thành Paracel. Từ đấy đến suốt thế kỷ XIX, các nước Tây Âu thực hiện được nhiều bản đồ thế giới gồm cả năm châu. Trong đó ghi tên nước ta là Giao Chỉ với cách phiên âm rất khác nhau tùy theo ngôn ngữ các dân tộc.
Địa danh Giao Chỉ được các bản đồ Tây phương ghi thành Cochi, Cauchi, Cauci, Quachym, Cochin... Khi thấy bên Ấn Độ có xứ Cochin, các bản đồ Tây phương ghi cho rõ hơn là Giao Chỉ gần Trung Quốc tức Cochinchina với các dạng khác nhau. Như vậy, nói chung trước thế kỷ XVII, địa danh Cochinchine và các dạng tương tự là tên gọi toàn quốc Đại Việt. Cuối thế kỷ XVI, nước ta chia ra Đàng Ngoài và Đàng Trong, các bản đồ Tây phương ghi tên Đàng Trong là Cochinchina và Đàng Ngoài là Tunquin (Đông Kinh).
Hàng trăm bản đồ thế giới của các nước Tây phương thực hiện, hầu hết trong đó đều có ghi đất nước ta với các hải đảo Hoàng Sa - Trường Sa mà họ gọi tên chung là Paracel hay Pracel. Bờ biển Pracel (Costa da Pracel) là ở Trung bộ Việt Nam. Không một bản đồ nào ghi bờ biển Pracel ở Nam Trung Hoa hay ở Phi Luật Tân (Philippines), Indonesia hoặc Mã Lai (Malaysia). Thật hiển nhiên, khắp thế giới đều thừa nhận Hoàng Sa -Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.

Các bản đồ nêu trên mô tả đất nước Việt Nam với bờ biển và biển Đông, do Tây phương ấn hành suốt từ 1525 đến 1886, chúng ta thấy dần dần sự hiểu biết của thế giới về đất nước ta ngày một chính xác, cả về hình thể lẫn địa danh. Nếu lấy Đại Nam nhất thống toàn đồ (1840) làm căn bản, ta sẽ thấy hầu hết các bản đồ thế giới đều vẽ quần đảo Pracel hay Paracel (gồm cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa) đúng với hình dáng và vị trí của Hoàng Sa và Vạn lý Trường Sa do Quốc sử quán triều Minh Mạng công bố. Hơn nữa, Giám mục Taberd đã ghi rõ trong An Nam đại quốc họa đồ (1838) ở địa điểm thích đáng: Paracel seu Cát Vàng (Paracel hay Cát Vàng). Taberd đã ghi địa danh Nôm Cát Vàng thay cho chữ Hán, Hoàng Sa. Như vậy, chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông và Hoàng Sa - Trường Sa đã được thế giới khẳng định qua các đồ bản suốt từ 500 năm qua.

Nguồn tin:http://www.monre.gov.vn