Toàn cảnh
cuộc họp
Báo cáo tóm tắt về quá trình xây dựng cũng như
tính cấp thiết của Đề án, bà Phạm Thu Hằng, Phó Tổng cục Biển và Hải đảo Việt
Nam cho biết: Sau 11 năm thành lập, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ
thuật của Tổng cục nói chung và các đơn vị sự nghiệp nói riêng còn
rất thiếu, xuống cấp, không đáp ứng được yêu cầu quản lý tài nguyên,
môi trường biển và hải đảo trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, Chi
cục/Phòng Biển và hải đảo ở các tỉnh, thành phố ven biển chưa được
đầu tư thiết bị nên gặp nhiều khó khăn rong thực hiện các nhiệm vụ
được giao. Do đó việc xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án là cơ sở quan trọng
để thực hiện thành công các mục tiêu, chủ trương lớn, khâu đột phá và các giải pháp
đề ra trong Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững
kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Theo đó, Đề án Tăng cường năng lực cơ sở
vật chất kỹ thuật phục vụ quản lý tài nguyên, môi trường biển hải
đảo đến năm 2030 được xây dựng với mục tiêu chung là: Tăng cường năng
lực và hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị và
phương tiện làm việc cho các cơ quan quản lý Nhà nước về biển và
hải đảo từ trung ương đến địa phương nhằm bảo đảm thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ về quản lý tổng hợp tài nguyên môi trường biển và
hải đảo mà trọng tâm là công tác quản lý Nhà nước và điều tra, quan
trắc, kiểm soát và bảo vệ môi trường biển, hải đảo; xây dựng cơ sở
dữ liệu về biển, hải đảo; góp phần đạt được các mục tiêu đề ra
tại Nghị quyết số 36/NQ-TƯ về Chiến lược phát triển bền vững kinh
tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đáp ứng yêu cầu
quản lý nhà nước biển và hải đảo trong tình hình mới.
Phạm vi của Đề án: thực hiện tại Bộ Tài nguyên và
Môi trường (Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam) và Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có biển (Sở Tài nguyên và Môi trường 28 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có biển). Thời gian thực hiện: từ năm 2020-2030.
Đề án gồm 5 nhóm nhiệm vụ chính, được thực hiện
trong giai đoạn 2020-2025 và 2026 -2030. Đối với nhóm nhiệm vụ tăng cường
năng lực hệ thống quan trắc tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, tập
trung xây dựng hệ thống trạm quan trắc tài nguyên, môi trường biển; hệ thống
trạm ra đa biển và hệ thống trạm phao biển, cụ thể sẽ đầu tư 32 trạm quan
trắc tài nguyên môi trường biển, 22 trạm ra đa biển (trong đó có 3
trạm đã đầu tư) và 35 trạm phao biển; cải tạo, nâng cấp hệ thống trạm
DGPS tại Hải Phòng, Quảng Nam và Bà Rịa - Vũng Tàu. Đối với nhóm nhiệm
vụ tăng cường năng lực quản lý tổng hợp; điều tra, nghiên cứu tài
nguyên môi trường biển; kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo
tập trung vào đầu tư đội tàu nghiên cứu biển, điều tra tài nguyên môi
trường biển; tăng cường năng lực trang thiết bị kỹ thuật hiện đại phục
vụ quản lý tổng hợp tài nguyên – môi trường biển và hải đảo. Đối với nhóm
nhiệm vụ hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và hiện đại hóa công
tác quản lý tài nguyên, môi trường biển hải đảo tập trung xây
dựng hệ thống thông tin tích hợp phục vụ quản lý tổng hợp tài nguyên
– môi trường biển, hải đảo. Đối với nhóm nhiệm vụ tăng cường năng
lực cơ sở vật chất phục vụ công tác quản lý tài nguyên, môi trường
biển, hải đảo sẽ tập trung đầu tư cơ sở vật chất phục vụ điều tra
cơ bản cho các đơn vị trực thuộc Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam; xây
dựng Trung tâm quốc tế về rác thải nhựa đại dương; xây dựng Phân Viện
Nghiên cứu biển và hải đảo miền Trung và Phân viện Tây Nam Bộ. Đối với
nhóm nhiệm vụ đầu tư trang thiết bị kỹ thuật cho Sở Tài nguyên và
Môi trường các tỉnh thành phố, căn cứ và nhu cầu và khả năng cân
đối nguồn lực tài chính của từng địa phương xây dựng dự án đầu tư,
mua sắm trang thiết bị kỹ thuật thiết yếu.
Phát biểu tại cuộc họp, đại diện lãnh đạo các Vụ:
Tổ chức cán bộ; Khoa học và Công nghệ; Hợp tác quốc tế; Kế hoạch - Tài chính
đều đánh giá cao tính cấp thiết và các nội dung chính của Đề án. Đề án được xây
dựng bài bản, bao quát các định hướng, giải pháp đột phá đề ra trong Nghị quyết
36-NQ/TW. Đồng thời đóng góp thêm ý kiến nhằm hoàn thiện Đề án như bổ sung, làm
rõ thêm cơ sở, căn cứ pháp lý xây dựng Đề án; rà soát lại danh mục, nhiệm vụ dự
án để bảo đảm tính khả thi, bám sát yêu cầu triển khai thực hiện Nghị quyết,…
Phát biểu tại buổi làm việc, Thứ trưởng
Trần Quý Kiên một lần nữa nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc xây dựng Đề
án. Đây là cơ sở quan trọng để thực hiện thành công các mục tiêu, chủ trương
lớn, khâu đột phá và các giải pháp đề ra trong Nghị quyết số 36-NQ/TW về
Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh
về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và
an toàn.
Thứ trưởng nhất trí cao với những đề xuất
đưa ra, đặc biệt trong bối cảnh yêu cầu quản lý tổng hợp tài nguyên, môi
trường biển và hải đảo và bảo đảm các điều kiện triển khai Nghị quyết
36-NQ/TW thì rất cần tăng cường, hiện đại hóa cơ sở vật chất, khoa học
công nghệ thì mới có thể thực hiện thắng lợi các mục tiêu này. Thứ
trưởng đề nghị Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cần rà soát lại chức năng
nhiệm vụ, hướng tới quản lý theo khu vực, vùng, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo tại các địa phương.
Thứ trưởng lưu ý Tổng cục rà soát lại các
nội dung, nhiệm vụ được đề xuất trong dự thảo Đề án, đặc biệt là cần làm rõ
tính chất, công nghệ, phương pháp trong việc xây dựng và triển khai các
nhiệm vụ lắp đặt trạm quan trắc tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và
hải đảo đảm bảo đầu tư hiệu quả, có tính khả thi cao, bởi vì đặc thù tại các
vùng biển thường chịu tác động lớn của yếu tố tự nhiên như sóng,
độ mặn, bão, lụt…dễ gây hỏng thiết bị.
Thứ trưởng cũng đề nghị, Tổng cục tiếp
thu, tổng hợp ý kiến góp ý của các đơn vị trực thuộc Bộ để hoàn
thiện Dự thảo Đề án, gửi xin ý kiến các bộ, ngành, địa phương có
biển; đồng thời tổ chức hội thảo lấy ý kiến các chuyên gia, nhà quản lý,
nhà khoa học trước khi hoàn thiện Đề án để báo cáo lãnh đạo Bộ,
trình Chính phủ xem xét, phê duyệt.