Tin tức

Cảnh báo tàn phá tài nguyên và môi trường ven biển 15/07/2014

0
Các nhà khoa học, nhà quản lý một lần nữa đồng loạt lên tiếng về tình trạng suy giảm tài nguyên thiên nhiên như đất, nước, thủy sản, đa dạng sinh học ở nhiều vùng sinh thái và biến đổi khí hậu ngày càng có những tác động xấu đến sản xuất và đời sống cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).




Tiềm năng tài nguyên vùng bờ biển có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Nhưng do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, cùng với việc quản lý chồng chéo kém hiệu quả, cộng với những thay đổi dưới tác động của biến đổi khí hậu, nên các hệ sinh thái vùng bờ đã và đang suy thoái, diện tích bị thu hẹp nghiêm trọng.

Tác động của biến đổi khí hậu  


Với hơn 3.260km đường bờ biển và 2 đồng bằng châu thổ lớn, Việt Nam là một trong những quốc gia bị tác động mạnh của biến đổi khí hậu. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, nếu mực nước biển dâng thêm 1m sẽ gây ảnh hưởng tới đời sống của 10,8% dân số Việt Nam sống tập trung tại các vùng châu thổ. Nếu dâng 5m thì khoảng 16% diện tích đất ven bờ và các hệ sinh thái ở đây bị ngập lụt, khoảng 35% dân số về 35% tổng sản phẩm quốc dân bị đe dọa. 

 Theo báo cáo của Cơ quan quốc tế về Biến đổi khí hậu: Biến đổi và biến thiên khí hậu gây ảnh hưởng đến thủy sản, nghề cá và cộng đồng ngư dân. Nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng và thay đổi lượng mưa làm cho hệ sinh thái, sản lượng đánh bắt cá, cơ sở hạ tầng và sinh kế nghề cá dễ bị tổn thương. Tại Việt Nam, mối quan ngại nổi lên là các dị thường lượng mưa và tăng nhiệt độ do sự ấm lên toàn cầu. Đặc biệt là bão và lũ lụt sau mỗi chu kỳ 3-4 năm, tác động của chúng tới các hệ sịnh thái (rừng ngập mặn, dải ven bờ, châu thổ), các loài cá phổ biến, nghề cá và sinh kế. 

Nước biển dâng sẽ ảnh hưởng đến vùng đất ngập nước ven biển Việt Nam, nghiêm trọng nhất là khu vực rừng ngập mặn dễ bị tổn thương ở Cà Mau, TP.Hồ Chí Minh, Vũng Tàu và Nam Định. Đa dạng sinh học vùng bờ và nguồn lợi thủy hải sản giảm sút. Các hệ sinh thái vùng bờ quan trọng bị suy thoái và thu hẹp diện tích. Các quần đàn có xu hướng di chuyển ra xa bờ hơn do thay đổi cấu trúc hoàn lưu ven biển, thay đổi tương tác sông-biển ở vùng cửa sông ven bờ, do mất đến 60% các nơi cư trú tự nhiên quan trọng. 

* Hệ quả của khai thác nguồn lợi quá mức 


Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế nhận xét: Trong 50 năm lại đây, Việt Nam   đã bị mất khoảng 80% diện tích rừng ngập mặn. Phong trào nuôi tôm, các dự án phát triển khu công nghiệp và đô thị là một trong những nguyên nhân nổi trội dẫn đến phá rừng ngập mặn. Vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Quảng Ninh, thành phố Hải Phòng là những nơi có diện tích rừng ngập mặn bị mất nhiều nhất. 

Theo số liệu của Viện Điều tra quy hoạch rừng, sau 60 năm (1943-2003), rừng ngập mặn của nước ta đã mất gần 4/5 diện tích. Tốc độ mất rừng ngập mặn do các hoạt động sản xuất trong giai đoạn 1985-2000 ước khoảng 15.000ha/năm. Do suy thoái nên năng suất nuôi tôm quảng canh trong rừng ngập mặn giảm sút nghiêm trọng, từ 200kg/ha/vụ năm 1980 đến nay chỉ còn 80kg/ha/vụ; 1ha rừng ngập mặn trước kia có thể khai thác được 800kg thủy sản, nhưng hiện chỉ thu được 1/20 so với trước. 

Cùng với đó, bức tranh về rạn san hô biển Việt Nam cũng rất ảm đạm. Khoảng 200 điểm rạn san hô được khảo sát, hiện trạng độ phủ của chúng đang giảm sút nhanh chóng. Ở Miền Bắc giảm 25-50%. Chỉ còn khoảng 1% các rạn san hô ở Miền   Nam   ở tình trạng tốt. Từ năm 2002, Viện Tài nguyên Thế giới đã cảnh báo khoảng 80% rạn san hô ở vùng biển Việt Nam nằm trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% ở mức cao. Nếu không có hành động tích cực và hiệu quả thì chỉ đến hết năm 2030, biển Việt Nam sẽ trở thành “thủy mạc”, không còn rạn san hô và cũng không còn tôm cá nữa.

Tình trạng trên cũng diễn ra tương tự với các hệ sinh thái thảm cỏ biển. Trước thời kỳ 1996-1997, diện tích của 39 bãi cỏ biển là 10.768ha, đến năm 2003 chỉ còn gần 4.000ha, nghĩa là đã mất đến 60%. Diện tích các hệ sing thái đất ngập nước ven biển nói chung cũng bị mất khoảng 60-70% để nhường chỗ cho các hoạt động của con người. Đồng thời có khoảng 100 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau, trên 100 loài được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam. Nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm về trữ lượng, sản lượng và kích thước đánh bắt. 

* Gia tăng chất thải ra cửa sông, ven biển 


Tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt, công nghiệp và ý tế ở vùng ven biển nước ta tăng mạnh qua các năm, ngày càng gây ô nhiếm trên diện rộng tại các vùng cửa sông, ven biển làm ảnh hưởng đến tài nguyên nước, sinh vật, các ngành kinh tế gắn với biển. Mỗi ngày có hàng ngàn tấn chất thải rắn được xả ra biển, đặc biệt là tại các vùng ven bờ. Không chỉ rác thải từ các hoạt động công nghiệp đóng và sửa chữa tàu thủy, nuôi trồng thủy sản, từ các khu công nghiệp ven biển, mà còn có rác thải sinh hoạt trên các đảo co dân cư cũng là vấn đề đáng phải lưu ý. Đây là những sức ép lớn lên môi trường, hệ sinh thái và tài nguyên ven biển và biển của Việt Nam.

Sơ bộ tính toán lượng rác thải rắn sinh hoạt phát sinh của 28 tỉnh, thành phố ven biển mỗi năm lên tới 14,03 triệu tấn. Bình quân 1ha nuôi tôm xả ra môi trường khoảng 5 tấn chất thải rắn và hàng nghìn m3 nước thải/năm. Với tổng diện tích trên 600.000ha nuôi tôm, hàng năm xả ra gần 3 triệu tấn chất thải rắn. Riêng chất thải rắn công nghiệp phát sinh tại các dải ven biển sơ bộ tính toán vào 2,42 triệu tấn/năm, chiếm tới 50% lượng chất thải rắn công nghiệp trên toàn quốc. 

Bên cạnh đó, sự cố tràn dầu và thải dầu cặn vẫn tiếp tục xảy ra. Cộng với 200 triệu tấn dầu được vận chuyển hàng năm qua các vùng biển ngoài khơi Việt  Nam  , với lượng thải dầu cho phép và bất hợp pháp rất lớn. Do đó, vùng biển ven bờ nước ta rất dễ bị tổn thương về sự cố ô nhiễm do dầu thải, dầu tràn. Ngoài ra, ở vùng biển Việt Nam có 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí. Bên cạnh thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn, hoạt động này còn phát sinh 5.600 tấn chất thải rắn, trong đó có 20-30% là chất thải rắn nguy hại còn chưa có bãi chứa và nơi xử lý. 

Theo báo cáo đánh giá thực trạng sạt lở bờ biển và các giải pháp phòng, bảo vệ bờ biển trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu của Viện Kỹ thuật biển (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), hiện có sáu đoạn thường xuyên bị xói lở do tác động của tự nhiên cũng như các hoạt động của con người, bao gồm: Khu vực Trại Nhái (phường 12, TP Vũng Tàu), khu vực Phước Hải, Lộc An (huyện Ðất Ðỏ), khu vực Hồ Tràm - Hồ Cốc và Bình Châu (huyện Xuyên Mộc).
 
Theo đánh giá của các cơ quan chức năng, thực trạng xói lở tại các khu vực này đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng mặt từ 2 mét/năm trước đây lên đến 30 mét/năm; trong đó, có điểm sạt lở tới hàng trăm mét. Ðiển hình như tại khu vực Trại Nhái trong vòng mười năm, biển đã lấn vào đất liền 720 m, riêng trong ba năm gần đây, biển đã lấn hơn 80m. Phó Chủ tịch UBND phường 12 Huỳnh Tấn Dũng cho biết: "Theo bản đồ địa chính, từ năm 1993 đến năm 2002 thì biển lấn vào đất liền khoảng 320 m, từ năm 2002 đến nay lấn khoảng 250 m. Như vậy khoảng 20 năm qua, biển đã lấn khoảng 700 m, nếu không có giải pháp kịp thời thì khu vực này sẽ bị mất đi hoàn toàn".

Theo các nhà khoa học của Viện Kỹ thuật biển, nguyên nhân khiến tình trạng biển xâm thực đang trở nên ngày càng nghiêm trọng ở Bà Rịa-Vũng Tàu chính là do biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Qua khảo sát nhiều đoạn bờ biển thường xuyên bị xói lở hay một số bãi biển còn phát hiện loại hình dòng rip, một loại dòng chảy rút rất mạnh từ bờ ra biển. Bên cạnh đó còn là do hoạt động khai thác cát tràn lan.

Ðể khắc phục tình trạng trên, Viện Kỹ thuật biển đề nghị tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu đầu tư xây dựng các công trình bảo vệ bờ biển theo ba giai đoạn. Trong đó giai đoạn 1 từ năm 2014 đến 2016 tập trung xây dựng công trình bảo vệ tại ba khu vực trọng điểm, gồm: Trại Nhái (phường 12, TP Vũng Tàu), Lộc An (huyện Ðất Ðỏ) và Hồ Tràm (huyện Xuyên Mộc). Cũng theo Viện Kỹ thuật biển, trong khi chưa có biện pháp khả thi, chính quyền tỉnh cần quản lý chặt chẽ hoạt động nạo vét, hút cát ở các cửa sông, cửa biển, bảo vệ nghiêm ngặt rừng và đồi cát phòng hộ dọc bờ biển, tránh hiện tượng ngăn được chỗ này nhưng biển lại gây xâm thực ở chỗ khác.

Cải thiện công tác quy hoạch thông qua lồng ghép các vấn đề môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học và khuyến khích các mô hình kinh tế thích ứng với biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long, chủ đề chính được bàn thảo tại Diễn đàn bảo tồn thiên nhiên và văn hóa vì sự phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long lần thứ VII do Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp UBND tỉnh Long An tổ chức hôm qua 13-6 với sự tham dự của đại diện lãnh đạo, nhà khoa học, nhà quản lý 13 tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL. Đây là diễn đàn thường niên đã được khởi xướng từ năm 2008 với sự hỗ trợ kỹ thuật, tài chính của Quỹ bảo tồn thiên nhiên thế giới – WWF.

Sạt lở ven biển ngày càng lấn sâu vào đất liền.

Ông Nguyễn Thanh Nguyên, Phó chủ tịch UBND tỉnh Long An, cho rằng từ sản lượng 300.000 tấn lúa/năm hồi những năm sau 1975, Long An đã vươn lên đạt sản lượng lương thực hơn 3 triệu tấn/năm như hiện tại. Đây là thành tích nổi bật của tỉnh nhưng để có được như vậy, Long An đã phải đánh đổi phần lương thực tăng thêm đó bằng toàn bộ hệ sinh thái Đồng Tháp Mười – đã phải khai phá, chuyển sang đất sản xuất lúa. Hệ sinh thái nước lợ vùng ven biển cũng gần như bị xóa sạch thời gian gần đây bởi phong trào nuôi tôm.
 
Cùng lúc này, thạc sĩ Nguyễn Văn Nghĩa, Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường – TN&MT) cho biết những năm gần đây tài nguyên nước mặt thuộc dòng chảy trên sông Mekong khi về đến ĐBSCL có xu hướng giảm mạnh do chịu sự điều tiết mạnh mẽ từ phía thượng nguồn và tác động của biến đổi khí hậu. Do bị tập trung khai thác, mực nước tầng ngầm cũng đã giảm trung bình 0,2 – 0,4 mét mỗi năm, cá biệt có nơi mực nước ngầm giảm tới hơn 0,9 mét/năm. Hậu quả của hai yếu tố trên, tình trạng xâm nhập mặn ngày càng gay gắt hơn do khô hạn kéo dài ở khu vực nội đồng trong mùa nắng. Ngoài ra tình trạng xói lở ven sông, bờ biển cũng luôn đe dọa tính mạng, tài sản của người dân.

Nghề cá ở khu vực ĐBSCL cũng đang đe dọa nguồn lợi thủy sản khi người dân vẫn tiếp tục khai thác thủy sản không hợp pháp, khai thác hủy diệt… làm suy giảm nghiêm trọng nguồn lợi tự nhiên. Các công trình ngăn mặn, chặn lũ, thủy điện… cũng là những bất lợi cho việc tồn tại và phát triển của các loại thủy sản.

Theo ông Bùi Cách Tuyến, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, những khó khăn như vậy đã bộc lộ rõ trong quá trình triển khai các quy hoạch tại khu vực ĐBSCL. Để giải quyết vấn đề này cần có các giải pháp đồng bộ, hợp lý và khoa học, đặc biệt cần cân nhắc các vấn đề môi trường trong quá trình lập quy hoạch. Ông Tuyến cho rằng những năm gần đây biến đổi khí hậu đã tác động xấu đến các hệ sinh thái tự nhiên, đi liền với việc ảnh hưởng tới sinh kế truyền thống của người dân.

Từ diễn đàn này, ông Tuyến kêu gọi đẩy mạnh truyền thông về ý nghĩa vai trò giá trị và phương thức quản lý, khai thác, sử dụng bền vững các dịch vụ hệ sinh thái của vùng đất ngập nước nhằm bảo tồn đa dạng sinh học và ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo ông Tuyến, cần thiết phải lồng ghép việc bảo tồn, phát triển bền vững các vùng đất ngập nước và duy trì các dịch vụ hệ sinh thái để ứng phó với biến đổi khí hậu vào các kế hoạch, chương trình, dự án phát triển có liên quan và coi đó là một trong những tiêu chí đánh giá các giải pháp phát triển bền vững, gắn việc bảo tồn với công tác xóa đói giảm nghèo tại các vùng đất ngập nước.


Nguồn tin:Theo http://biendoikhihau.gov.vn