Mạng lưới Quan trắc của Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc
gia
1.Mạng lưới trạm thủy văn
Mạng Lưới Trạm Thủy Văn Khu Vực Đồng Bằng
Mạng Lưới Trạm Thủy Văn Khu Vực Đông Bắc
Mạng Lưới Trạm Thủy Văn Khu Vực Việt Bắc
Mạng Lưới Trạm Thủy Văn Khu Vực Tây Bắc
Mạng Lưới Trạm Thủy Văn Khu Vực Bắc Trung Bộ
Mạng Lưới Trạm Thủy Văn Khu Vực TrungTrung Bộ
Mạng Lưới Trạm Thủy Văn Kh u Vực Nam Trung Bộ
Mạng Lưới Trạm Thủy Văn Khu Vực Tây Nguyên
Mạng Lưới Trạ Thủy Văn Khu Vực Nam Bộ
2.Mạng lưới trạm khí tượng
Mạng lưới trạm khí tượng khu vực Đồng bằng Bắc bộ
Mạng lưới trạm khí tượng khu vực Đông Bắc
Mạng lưới trạm khí tượng khu vực Việt Bắc
Mạng lưới trạm khí tượng khu vực Tây Bắc
Mạng lưới trạm khí tượng khu vực Bắc Trung Bộ
Mạng lưới trạm khí tượng khu vực Trung Trung Bộ
Mạng lưới khí tượng khu vực Nam Trung Bộ
Mạng lưới trạm khí tượng khu vực Tây Nguyên
Mạng lưới trạm khí tượng khu vực Nam Bộ
Danh mục các loại trạm quan trắc trong Bản đồ hệ thống trạm quan trắc Môi trường Quốc gia:
Trạm Quan trắc và Phân tích môi trường (QT&PTMT) đất miền Bắc
Trạm QT&PTMT đất miền Nam
Trạm QT&PTMT đất Tây nguyên và Nam Trung bộ
Trạm QT&PTMT vùng đất liền 1
Trạm QT&PTMT vùng đất liền 2
Trạm QT&PTMT vùng đất liền 3
Trạm QT&PTMT vùng ven biển 1 miền Bắc (Trạm QT&PTMT biển Đồ Sơn)
Trạm QT&PTMT vùng ven biển 2 miền Trung (Trạm QT&PTMT biển miền Trung)
Trạm QT&PTMT vùng ven biển 3 miền Nam (Trạm QT&PTMT biển miền Nam)
Trạm QT&PTMT vùng biển khơi 4 (Quân chủng Hải quân)
Trạm QT&PTMT vùng biển khơi 5 (Viện nghiên cứu Hải sản)
Trạm QT&PTMT Mưa axit 1
Trạm QT&PTMT Mưa axit 2
Trạm QT&PTMT Mưa axit 3
Trạm QT&PTMT Hóa học - Phóng xạ 1
Trạm QT&PTMT Hóa học - Phóng xạ 2
Trạm QT&PTMT Hóa học - Phóng xạ 3
Trạm QT&PTMT Lao động - Viện Y học lao động và vệ sinh môi trường
Trạm QT&PTMT Lao động - Viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật Bảo hộ lao động
Trạm QT&PTMT Công nghiệp
Phòng thử nghiệm môi trường
Trạm QT&PTMT Nước sông Hương - Huế
Trạm QT&PTMT nền Cúc Phương và Hồ Hòa Bình
Trạm QT&PTMT không khí tự động cố định miền Bắc
Trạm QT&PTMT không khí tự động di động miền Nam
Mạng lưới các trạm quan trắc chuyên đề thuộc mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia
Việc đưa các Trạm quan trắc chuyên đề vào mạng lưới QTMT quốc gia là một trong những mục tiêu nhằm xây dựng mạng lưới quan trắc đảm bảo tính thống nhất trên phạm vi cả nước, đồng bộ, từng bước tiên tiến và hiện đại hóa cho các thành phần môi trường, đáp ứng nhu cầu thông tin, dữ liệu môi trường cho công tác quản lý môi trường trong thời gian qua. Các trạm vùng chuyên đề do các Bộ ngành khác nhau quản lý cho từng lĩnh vực riêng, địa bàn hoạt động rộng khắp cả lãnh thổ Việt Nam, bao gồm cả những vùng biển khơi. Sau đây là danh sách 21 trạm quan trắc chuyên đề.
Mạng lưới các trạm quan trắc môi trường đất
1. Trạm QT và PT môi trường đất miền Bắc, Viện Thổ nhưỡng nông hoá, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Bộ NN và PT Nông thôn;
2. Trạm QT và PT môi trường đất miền Nam, Trung tâm nghiên cứu đất , phân bón và môi trường phía Nam, Viện thổ nhưỡng nông hoá, Bộ NN và PT nông thôn;
3. Trạm QT và PT môi trường đất Tây nguyên và Nam Trung bộ, Trung tâm nghiên cứu đất , phân bón và môi trường phía Nam, Viện thổ nhưỡng nông hoá (Cơ sở tại Tây Nguyên), Bộ NN và PT Nông thôn;
4. Trạm QT và PT môi trường vùng đất liền 1, Trung tâm kỹ thuật môi trường và khu công nghiệp, ĐH Xây Dựng Hà Nội;
5. Trạm QT và PT môi trường vùng đất liền 2, Phân viện nhiệt đới MT Quân sự, Bộ Quốc phòng;
6. Trạm QT và PT môi trường vùng đất liền 3, Viện MT và TN, ĐH Quốc Gia TPHCM;
Mạng lưới các trạm quan trắc môi trường biển
1. Trạm quan trắc và phân tích môi trường biển ven bờ phía Bắc (vùng 1), Viện Tài nguyên và Môi trường biển (IMER), Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST).
2. Trạm QT và PT môi trường vùng ven biển 2 miền Trung (Trạm QT và PT môi trường biển miền Trung), Trung tâm khảo sát, nghiên cứu và tư vấn môi trường biển, Viện Cơ học, Viện KHCN Việt Nam;
3. Trạm QT và PT môi trường vùng ven biển 3 miền Nam (Trạm QT và PT môi trường biển miền Nam), Viện Hải dương học, Viện KHCN Việt Nam;
4. Trạm QT và PT môi trường vùng biển khơi 4 (Quân chủng hải quân), Trung tâm QT và PT môi trường biển hải quân, Bộ Tư lệnh hải quân.;
5. Trạm QT và PTMT vùng biển khơi 5, Viện nghiên cứu hải sản, Bộ Thuỷ sản;
Mạng lưới các trạm quan trắc mưa axit
1. Trạm QT và PTMT mưa axit 2, Phân viện Kỹ thuật nhiệt đới Bảo vệ môi trường, Viện Kỹ thuật quân sự 2, Bộ Quốc phòng;
2. Trạm QT và PTMT mưa axit 3, Trung tâm chất lượng nước và môi trường, Viện khảo sát và quy hoạch thuỷ lợi Nam Bộ, Bộ NN và PT nông thôn;
Mạng lưới các trạm quan trắc phóng xạ
1. Trạm QT và PT môi trường hoá học - Phóng xạ 1, Trung tâm Công nghệ xử lý MT, Viện hoá học quân sự, Bộ Tư lệnh hoá học, Bộ Quốc phòng;
2. Trạm QT và PT môi trường hoá học - Phóng xạ 2, Trung tâm An toàn bức xạ, Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân, Bộ Tài nguyên và Môi Trường;
3. Trạm QT và PT môi trường hoá học - Phóng xạ 3, Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, Viện Năng lượng nguyên tử, Bộ Khoa học và Công nghệ;
Mạng lưới các trạm quan trắc môi trường lao động và khu công nghiệp
1. Trạm QT và PT môi trường lao động - Viện Y học lao động và vệ sinh môi trường, Viện Y học lao động và Vệ sinh môi trường, Bộ Y tế;
2. Trạm QT và PT môi trường lao động - Viện nghiên cứu lao động kỹ thuật Bảo hộ lao động, Viện Nghiên cứu khoa học kỹ thuật Bảo hộ lao động;
3. Trạm QT và PTMT Công nghiệp, Trung tâm Quan trắc môi trường và kiểm soát ô nhiễm công nghiệp, Viện KH&CN môi trường, Đại học Bách khoa Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo;
Mạng lưới các trạm quan trắc môi trường nước sông
1. Trạm QT và PTMT nước sông Hương - Huế, Trung tâm Tài nguyên Môi trường và Công nghệ Sinh học - Đại học Huế.
Quan trắc khí tượng bề mặt
Hiện có 168 trạm khí
tượng bề mặt, gồm có: 57 trạm hạng I, 68 trạm hạng II và 43 trạm hạng III.
Trong đó có 122 trạm synop; 46 trạm khí hậu; 13 trạm đo bức xạ mặt trời và 25
trạm phát báo quốc tế. Ngoài ra còn có 393 điểm đo mưa nhân dân.
Quan trắc khí
tượng nông nghiệp
Hiện có 27 trạm khí
tượng nông nghiệp, trong đó có 15 trạm cơ bản, 12 trạm phổ thông đại diện cho
các vùng.
Quan trắc cao
không
Hiện có 3 trạm thám
không vô tuyến tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Tại Hà Nội, Đà
Nẵng quan trắc mỗi ngày hai lần, tại thành phố Hồ Chí Minh quan trắc mỗi ngày
một lần Các yếu tố quan trắc trên cao gồm: khí áp, nhiệt độ, độ ẩm, hướng và
tốc độ gió từ mặt đất lên đến độ cao 30 km. Có 7 trạm đo gió bằng kinh vĩ quang
học, 3 trạm đo tổng lượng ôzôn và bức xạ cực tím.
Quan trắc ra đa
thời tiết
Hiện có 6 trạm
ra đa thời tiết gồm 8 ra đa phục vụ phát hiện, theo dõi bão và các hiện tượng
thời tiết nguy hiểm khác, trong đó có 03 ra đa thời tiết TRS-2730 do Pháp chế
tạo đặt tại Phù Liễn (Hải Phòng), Vinh (Nghệ An) và Việt Trì (Phú Thọ),
03 ra đa thời tiết DOPPLER do Hoa Kỳ chế tạo đặt tại Tam Kỳ (Quảng Nam),
Nha Trang (Khánh Hoà) và Nhà Bè (Tp. Hồ Chí Minh), 02 ra đa thời tiết
MRL-5 do Liên Xô (cũ) chế tạo, đặt tại Phủ Liễn (Hải Phòng) và Vinh (Nghệ An).
Quan trắc thủy văn
Hiện có 231
trạm thủy văn, gồm: 59 trạm hạng I, 21 trạm hạng II và 151 trạm hạng
III. Trong số 231 trạm thủy văn có 88 trạm tự ghi, tự báo mực nước; 100 trạm
vùng ảnh hưởng triều.
Quan trắc khí tượng thủy văn biển
Hiện có 17
trạm khí tượng thủy văn biển quan trắc các yếu tố khí tượng và các yếu tố hải
dương: sóng, mực nước biển, thủy triều v.v...Ngoài ra, còn có 1 tàu nghiên cứu
biển phục vụ điều tra khảo sát biển.
Quan
trắc vệ tinh
Đã lắp đặt tại Hà
Nội 01 trạm thu số liệu vệ tinh địa tĩnh GMS và vệ tinh quỹ đạo cực NOOA với độ
phân giải cao.
Quan trắc môi
trường không khí và nước
Hiện có 154 trạm, điểm
đo, gồm:
- 6 trạm quan trắc tự động môi trường không khí, trong đó có 1 trạm nền vùng
khí quyển (gồm 01 trạm quan trắc môi trường không khí tự động và 01 trạm quan
trắc khí tượng bề mặt).
- 18 trạm quan trắc bụi và thành phần hoá học nước mưa.
- 48 trạm quan trắc môi trường nước sông.
- 8 trạm quan trắc môi trường nước vùng hồ.
- 6 trạm quan trắc môi trường nước biển ven bờ. Lấy mẫu và phân tích thành phần
hoá học 1 lần/tháng.
- 68 điểm đo mặn.
Kiểm định máy
khí tượng, thủy văn
Trung tâm KTTV Quốc gia
có cơ sở kiểm định các thiết bị, máy khí tượng thủy văn. Các máy đo một số yếu
tố khí tượng thủy văn cơ bản như: nhiệt độ, độ ẩm, khí áp, bức xạ mặt trời, tốc
độ gió và tốc độ dòng chảy được kiểm định thường xuyên, theo định kỳ nhằm đảm
bảo độ chính xác của số liệu đo đạc.
Phân tích môi
trường
Hiện có 3 phòng thí
nghiệm phân tích môi trường được trang bị các thiết bị phân tích hiện đại, đồng
bộ đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành Phố Hồ Chí Minh. Phân tích mẫu môi trường
cho tất cả các trạm thuộc 9 Đài KTTV khu vực và các cơ quan, đơn vị có nhu cầu.
THỰC TRẠNG HỆ THỐNG QUAN
TRẮC MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1. Vài nét về hệ thống quan trắc môi
trường ở Việt Nam
a. Mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia
Thực hiện Luật Bảo vệ môi trường năm 1993, Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường (trước đây) đã xây dựng và đưa vào hoạt động
mạng lưới trạm quan trắc môi trường quốc gia. Các trạm quan trắc môi trường
quốc gia được xây dựng trên cơ sở phối hợp giữa Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường (trước đây) với các cơ quan nghiên cứu, phòng thí nghiệm đang hoạt động
của các Bộ, ngành và địa phương gồm Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Quốc phòng, Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế, Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và tỉnh Lào
Cai. Tại thời điểm đó, đây là biện pháp hiệu quả và kịp thời, tận dụng được cơ
sở vật chất về trang thiết bị cũng như nguồn nhân lực sẵn có của các cơ quan
này. Tính đến năm 2002, mạng lưới đã có 21 trạm được thành lập, tiến hành quan
trắc các thành phần môi trường như: nước mặt lục địa, nước dưới đất, nước mưa,
nước biển, đất, phóng xạ, không khí xung quanh và tiếng ồn, chất thải rắn, môi
trường lao động, y tế và công nghiệp,... tại hàng nghìn điểm quan trắc trên
toàn quốc với tần suất khoảng từ 2 đến 6 lần/năm.
Sau khi Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành
lập năm 2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11
năm 2004 về “Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước” và Nhà nước cho ra đời Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Đây là
những căn cứ pháp lý quan trọng để Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định
số 16/2007/QĐ-TTg ngày 29 tháng 01 năm 2007 về việc phê duyệt “Quy hoạch tổng
thể mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia đến năm 2020” (sau
đây gọi là Quyết định số 16).
Căn cứ theo Quyết định số 16, mạng lưới quan trắc
môi trường quốc gia được chia thành hai mạng lưới: (1) Mạng lưới quan trắc môi
trường nền và (2) Mạng lưới quan trắc môi trường tác động.
- Mạng lưới quan trắc môi trường nền được
xây dựng trên nguyên tắc kế thừa các trạm, điểm quan trắc môi trường đã có
thuộc mạng lưới quan trắc môi trường không khí và nước do Tổng cục Khí tượng
Thuỷ văn (trước đây) và mạng lưới quan trắc môi trường nước dưới đất do Tổng
cục Địa chất (trước đây) quản lý. Nay, Trung tâm Khí tượng Thuỷ văn quốc gia và
Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đều đã nhập về Bộ Tài nguyên và Môi trường,
do Bộ quản lý và giao nhiệm vụ quan trắc môi trường nền trực tiếp.
- Mạng lưới quan trắc môi trường tác động được
xây dựng trên nguyên tắc kế thừa các trạm, điểm quan trắc môi trường đã có
thuộc mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia trước đây do Tổng cục Môi trường
quản lý, và một số trạm, điểm quan trắc môi trường do Trung tâm Khí tượng Thủy
văn quốc gia và Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam... quản lý thực hiện. Theo
Quyết định số 16, Trung tâm Quan trắc môi trường thuộc Tổng cục Môi trường được
xác định là Trung tâm đầu mạng, thực hiện vai trò chỉ huy, điều hành hoạt động
của toàn mạng lưới.
Đồng thời, đối với mạng lưới quan trắc môi trường
quốc gia gồm 14 loại hình trạm quan trắc như sau
* Đối với mạng lưới quan trắc môi trường
nền:
- Trạm quan trắc môi trường không khí, nước mặt
lục địa (sông, hồ,…);
- Trạm quan trắc môi trường biển;
- Trạm quan trắc môi trường không khí và nước mặt
lục địa, lắng đọng axit;
- Trạm vùng quan trắc nền nước dưới đất;
* Đối với mạng lưới quan trắc môi trường
tác động:
- Trạm vùng tác động (10 Trạm);
- Trạm vùng ven bờ (03 Trạm);
- Trạm vùng biển khơi (04 Trạm);
- Trạm vùng đất (03 Trạm);
- Trạm vùng phóng xạ (04 Trạm);
- Trạm quan trắc đa dạng sinh học;
- Trạm quan trắc và phân tích môi trường nước
sông (09 Trạm);
- Trạm quan trắc chất thải;
- Trạm không khí tự động (58 Trạm).
b. Mạng lưới quan trắc môi trường địa phương
Thực hiện Nghị định số 81/2007/NĐ-CP ngày
23/5/2007 của Chính phủ quy định tổ chức, bộ phận chuyên môn về bảo vệ môi
trường tại cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước và Thông tư liên tịch số
12/2007/TTLT-BTNMT-BNV ngày 27/12/2007 giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ
Nội vụ hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 81/2007/NĐ-CP, phần lớn
các địa phương đã thành lập đơn vị trực thuộc thực hiện chức năng quan trắc môi
trường, theo dõi và giám sát chất lượng môi trường không khí và nước trên
địa bàn của địa phương mình. Tính đến giữa năm 2010, đã có trên 40 địa phương
trong cả nước thành lập Trung tâm Quan trắc môi trường với các tên gọi khác
nhau, trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc Chi cục Môi trường.
Tại một số địa phương có nguồn ngân sách dồi dào
hoặc có sự hỗ trợ kinh phí của các dự án, tổ chức trong và ngoài nước (như: Hà
Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà
Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Đà Nẵng...), các nguồn lực tài chính, trang thiết bị
và con người đã được quan tâm đầu tư, phát triển khá mạnh. Trong khi đó, tại
nhiều địa phương khác, việc đầu tư các nguồn lực cho hoạt động quan trắc môi
trường chưa được quan tâm, chú ý đúng mức. Thời gian qua, một số địa phương có
những vấn đề “nóng” về môi trường (như: Lâm Đồng, Đăk Nông, An Giang, Lào Cai,
Phú Thọ, Ninh Thuận...) cũng đã và đang xây dựng các dự án đầu tư tăng cường
năng lực quan trắc môi trường.
Bảng 1. Danh sách các tỉnh/thành phố đã
thành lập Trung tâm Quan trắc môi trường
c. Mạng lưới quan trắc môi trường thuộc các
Bộ, ngành khác
Ngoài mạng lưới quan trắc môi trường tại Bộ Tài
nguyên và Môi trường và các địa phương trên cả nước, tại các Bộ ngành khác, bên
cạnh việc tham gia mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia của Bộ Tài nguyên và
Môi trường, nhiều Bộ ngành, cũng tiến hành quan trắc một số thành phần môi
trường để đánh giá các tác động đến môi trường do hoạt động của ngành, lĩnh vực
mình quản lý theo quy định tại Điều 94 của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Đến
nay, nhiều Bộ ngành như: Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế, Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Tập đoàn dầu khí quốc gia
Việt Nam, Tập đoàn than và khoáng sản Việt Nam... đã có hoạt động quan trắc môi
trường và cũng đã thu được những dữ liệu cơ bản phục vụ yêu cầu quản lý môi
trường của Bộ, ngành mình.
2. Những kết quả đạt được
Trong thời gian vừa qua, hoạt động quan trắc môi
trường quốc gia và địa phương đã đáp ứng một phần nhu cầu về số liệu, thông tin
phục vụ công tác bảo vệ môi trường, xây dựng các báo cáo môi trường trình Chính
phủ, Quốc hội và đề xuất các biện pháp quản lý, bảo vệ môi trường. Bên
cạnh đó, nhiều báo cáo, số liệu kết quả quan trắc đã được công bố để cộng đồng
tiếp cận và sử dụng phục vụ cho các mục đích nghiên cứu, đào tạo, nâng cao nhận
thức cộng đồng, hội nhập và chia sẻ quốc tế...
Hoạt động quan trắc môi trường đã được các ngành,
các cấp, các địa phương quan tâm và triển khai thực hiện ở những mức độ khác
nhau phục vụ việc quản lý môi trường của mình. Một số trạm quan
trắc đã có cơ sở vật chất cơ bản, tối thiểu (bao gồm thiết bị quan trắc và
phòng thí nghiệm) đáp ứng yêu cầu công tác quan trắc môi trường. Một số
nội dung cụ thể đã được thực hiện như:
- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật, tài liệu hướng dẫn kỹ thuật, hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và
đơn giá trong quan trắc môi trường;
- Tổ chức và đẩy mạnh việc triển khai thực hiện
Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg ngày 29 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt quy hoạch tổng thể hệ thống quan trắc tài nguyên và môi trường quốc
gia đến năm 2020 đối với mạng quan trắc môi trường quốc gia. Đây là kim chỉ nam
cho mọi hoạt động quan trắc môi trường thời gian qua;
- Đầu tư, tăng cường năng lực cho Trung tâm Quan
trắc môi trường thuộc Tổng cục Môi trường để thực hiện vai trò chỉ huy, điều
hàng mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia. Cụ thể là:
+ Tăng cường trang thiết bị phục vụ lấy mẫu, đo
và phân tích tại hiện trường và các phương tiện bảo quản, vận chuyển mẫu về
phòng thí nghiệm;
+ Xây dựng và vận hành Phòng thí nghiệm trọng tài
ở cấp quốc gia, đạt chuẩn ISO/IEC 17025;
+ Xây dựng và chuẩn bị đưa vào vận hành Phòng
Kiểm chuẩn môi trường ở cấp quốc gia phục vụ hiệu chuẩn một số thiết bị quan
trắc môi trường;
+ Nâng cấp, xây dựng hệ thống thông tin truyền
nhận số liệu tự động từ các điểm, trạm quan trắc về Trung tâm đầu mạng, phù hợp
với hệ thống thông tin quan trắc của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
- Duy trì hệ thống quan trắc môi trường quốc gia
với 21 trạm quan trắc tổng hợp và chuyên ngành; thực hiện các chương trình quan
trắc các thành phần môi trường (nước mặt lục địa, nước mưa, nước biển, không
khí và tiếng ồn, phóng xạ, đất, chất thải rắn,…) với hàng nghìn điểm quan trắc
trong đó chủ yếu tập trung vào các điểm nóng về môi trường và các khu vực, các
vùng sinh thái đặc biệt nhạy cảm về môi trường tại hầu hết các địa phương trên
cả nước;
- Duy trì và tăng cường hoạt động quan trắc tác
động môi trường ở cấp quốc gia, đặc biệt đối với quan trắc chất lượng nước tại
3 lưu vực sông chính (lưu vực sông Cầu, lưu vực sông Nhuệ-Đáy và lưu vực hệ
thống sông Đồng Nai) và quan trắc chất lượng nước và không khí tại các đô thị,
vùng kinh tế trọng điểm (vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, miền Trung và phía
Nam);
- Thiết kế mới các chương trình quan trắc môi
trường quốc gia (chương trình quan trắc tác động của hoạt động khai thác và chế
biến bauxit tại khu vực Tây Nguyên, chương trình quan trắc chất lượng nước tại
các công trình thuỷ điện, chương trình quan trắc chất lượng nước các lưu vực
sông chính, chương trình quan trắc môi trường khu vực làng nghề và nông thôn,
chương trình quan trắc ô nhiễm xuyên biên giới...);
- Xây dựng và tăng cường năng lực đối với các
trạm quan trắc đã có. Xây dựng dự án và đầu tư mới các trạm quan trắc môi
trường không khí và nước tự động, cố định nhằm theo dõi liên tục và thường
xuyên chất lượng môi trường theo thời gian thực. Tính đến nay, toàn quốc
đã có 26 Trạm quan trắc không khí tự động, cố định do Trung ương và một số địa
phương quản lý, vận hành (Bảng 2) và 05 xe quan trắc tự động, di động.
Hệ thống trạm quan trắc môi trường nước đã bắt đầu
được thiết lập với Trạm quan trắc đầu tiên đặt tại Phủ Lý, Hà Nam;
- Bổ sung, triển khai các điểm quan trắc mới về
tác động môi trường không khí, nước mặt, nước biển, đất và phóng xạ tại các
tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương, các vùng kinh tế trọng điểm, khu công
nghiệp, các lưu vực sông, cảng biển, bãi tắm...
- Bước đầu nghiên cứu hiện trạng quan trắc một số
lĩnh vực liên quan đến đa dạng sinh học (đối với rừng, môi trườ
- Thiết lập và duy trì hệ thống cơ sở dữ liệu
quản lý số liệu quan trắc môi trường. Đây là hệ thống được thiết lập sớm nhất
(từ năm 1995) và có nhiều số liệu quan trắc môi trường nhất với đầy đủ các
thành phần môi trường quan trắc. Hiện nay, Trung tâm Quan trắc môi trường thuộc
Tổng cục Môi trường đã cập nhật phiên bản 2.0 cho phép người dùng có thể nhập
dữ liệu, tìm kiếm thông tin và kết xuất số liệu, báo cáo kết quả quan trắc;ng...)
làm cơ sở cho việc đề xuất các công việc liên quan đến quan trắc đa dạng sinh
học.
- Đẩy mạnh việc thực hiện bảo đảm chất lượng và
kiểm soát chất lượng trong quan trắc môi trường, nâng cao chất lượng số liệu
quan trắc môi trường;
- Chú ý đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực thực hiện
quan trắc môi trường;
- Hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quan
trắc môi trường đã được quan tâm, đẩy mạnh để tận dụng kinh nghiệm và sự hỗ trợ
từ các nước, các dự án và tổ chức quốc tế;
- Hỗ trợ, hướng dẫn các đơn vị quan trắc môi
trường xây dựng và triển khai các dự án đầu tư trạm quan trắc môi trường vùng,
trạm quan trắc nước xuyên biên giới, các dự án về tăng cường năng lực quan trắc
môi trường. Trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã hỗ trợ đầu
tư tăng cường năng lực trang thiết bị cho Trung tâm Quan trắc môi trường các
tỉnh An Giang, Lào Cai, Thái Nguyên, Hà Nam và Nghệ An với tổng kinh phí trên
30 tỷ đồng.
- Ở một số địa phương, hoạt động quan trắc môi
trường đã đi vào hoạt động bài bản, ổn định và có được những số liệu, báo
cáo kết quả quan trắc định kỳ, thường xuyên phục vụ cho công tác quản lý và
giám sát chất lượng môi trường của địa phương mình;
- Tại một số Bộ ngành đã thiết lập và duy trì hệ
thống quan trắc môi trường phục vụ cho mục đích quản lý ngành, lĩnh vực và đến
nay đã đầu tư được hệ thống trang thiết bị, nhân lực và số liệu quan trắc cơ
bản.
3. Những tồn tại, thách thức
Mặc dù đã đạt được một số kết quả, thành công ban đầu đáng khích lệ, tuy nhiên
cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng đến nay vẫn chưa có bước đột phá nhằm phát
triển và đẩy mạnh hoạt động của hệ thống quan trắc môi trường theo hướng
đồng bộ, tiên tiến và hiện đại, đưa hệ thống quan trắc môi trường của nước ta
hội nhập với các hệ thống quan trắc của các nước tiên tiến trong khu vực và thế
giới. Một số tồn tại, thách thức cụ thể như sau:
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tài liệu
hướng dẫn kỹ thuật cho hoạt động quan trắc môi trường còn chưa đầy đủ;
- Hệ thống các quy chuẩn/tiêu chuẩn kỹ thuật,
định mức kinh tế - kỹ thuật trong quan trắc môi trường còn chưa đồng bộ và
nhiều bất cập;
- Việc triển khai thực hiện Quyết định số
16/2007/QĐ-TTg ngày 29 tháng 01 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ còn chậm, chưa
đạt các mục tiêu đặt ra theo quy hoạch. Trong gần 4 năm từ 2007 - 2010,
tổng kinh phí đầu tư để thực hiện Quyết định số 16 cho hoạt động quan trắc
môi trường quốc gia chỉ khoảng 140 tỷ bao gồm cả kinh phí đầu tư trang thiết bị
và hoạt động quan trắc định kỳ (chỉ chiếm khoảng 4% phần kinh phí dành cho mạng
lưới quan trắc môi trường trong Quyết định số 16). Do vậy mà tổng số trạm, điểm
được bổ sung, xây dựng trong giai đoạn từ năm 2007 - 2010 đạt tỉ lệ rất thấp so
với nội dung đã đặt ra trong quy hoạch (Bảng 3).
Tổng số trạm, điểm quan trắc môi trường
quốc gia được bổ sung, xây dựng giai đoạn 2007 - 2010
Đơn vị tính: Tỉnh/thành phố
- Kinh phí dành cho hoạt động quan trắc môi
trường ở cả cấp Trung ương và địa phương còn hạn chế so với nhu cầu đặt
ra. Do hạn chế về kinh phí quan trắc môi trường nên các chương trình quan
trắc môi trường quốc gia chưa được tăng cường cả về điểm, thông số và tần suất
quan trắc, dẫn đến tình trạng chưa phát hiện kịp thời tình trạng ô nhiễm, bị
động trong xác định nguyên nhân và đề xuất các giải pháp khắc phục. Tại
nhiều địa phương, hoạt động quan trắc môi trường được bố trí kinh phí rất ít
ỏi, không đáng kể. Đây cũng là nguyên nhân làm cho các địa phương không nắm
được cụ thể tình hình ô nhiễm môi trường tại địa phương mình.
- Kinh phí duy trì hoạt động, bảo trì, vận hành
các thiết bị quan trắc cũng không được cấp đầy đủ dẫn đến tình trạng một số
thiết bị đã được đầu tư nhưng không có kinh phí để bảo trì, vận hành gây hỏng
hóc, lãng phí.
- Hệ thống trang thiết bị phục vụ quan trắc và
phân tích môi trường được đầu tư thiếu tính đồng bộ trong toàn hệ thống, làm
ảnh hưởng đến chất lượng số liệu, nhiều kết quả quan trắc và phân tích khó tích
hợp và khó so sánh được với nhau.
- Nguồn nhân lực thực hiện quan trắc môi trường
nhìn chung còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Công tác đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực thực hiện quan trắc môi trường chưa được chú trọng;
- Công tác quan trắc môi trường còn chưa đáp ứng
kịp thời các vấn đề môi trường mới, phức tạp như: quan trắc, theo dõi các tác
động của hoạt động khai thác và chế biến bauxit; quan trắc, giám sát biến đổi
khí hậu; quan trắc, cảnh báo phóng xạ từ các nhà máy điện nguyên tử; quan trắc
môi trường xuyên biên giới...);
- Công tác bảo đảm an toàn lao động cho các cán
bộ quan trắc môi trường chưa được chú ý đúng mức; Còn thiếu các chế độ, chính
sách cho người lao động làm việc trong môi trường đặc thù (phụ cấp độc hại,
nặng nhọc, nguy hiểm...);
- Công tác phổ biến thông tin môi trường cho cộng
đồng còn chưa được triển khai rộng rãi, thường xuyên;
- Công tác bảo đảm chất lượng và kiểm soát chất
lượng chưa được chú trọng thực hiện dẫn đến chất lượng số liệu còn chưa cao;
- Một số địa phương vẫn chưa thành lập Trung tâm
Quan trắc môi trường; Nhiều địa phương chưa xây dựng và phê duyệt Chương
trình/Quy hoạch mạng lưới các điểm quan trắc môi trường trên địa bàn. Năng lực
quan trắc môi trường giữa các địa phương còn chưa đồng đều, có sự chênh lệch
khá lớn;
- Tại nhiều Bộ ngành, hoạt động quan trắc chưa
được duy trì để cung cấp các số liệu định kỳ về môi trường. Hoạt động quan trắc
môi trường mang tính hệ thống và thường xuyên thì chỉ có ở một số Bộ ngành như
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông vận tải,
Bộ Y tế, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam...
4. Định hướng thời gian tới
Để phát triển và kiện toàn hệ thống quan trắc môi
trường, phục vụ kịp thời cho việc phát hiện, đánh giá ô nhiễm môi trường, theo
dõi, giám sát chất lượng môi trường và xử lý khắc phục những bức xúc về ô nhiễm
môi trường ở các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị, lưu vực sông..., trong
thời gian tới, các cấp, các ngành cần triển khai đồng bộ và kịp thời một số
công việc như sau:
- Xây dựng mạng lưới quan trắc môi trường quốc
gia và địa phương bảo đảm thống nhất, đồng bộ, tiên tiến và từng bước hiện đại,
có hiệu quả nhằm bảo vệ môi trường phục vụ, phát triển mạnh và bền vững kinh tế
- xã hội của đất nước;
- Kiện toàn hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật, tài liệu hướng dẫn kỹ thuật, hệ thống tiêu chuẩn/quy chuẩn kỹ thuật, định
mức kinh tế - kỹ thuật và đơn giá trong quan trắc môi trường;
- Tăng cường đầu tư kinh phí nâng cao năng lực
quan trắc môi trường;
- Đẩy mạnh việc đầu tư tăng cường trang thiết bị
quan trắc môi trường bảo đảm tính đồng bộ, tiên tiến và hiện đại;
- Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý, vận hành hệ
thống quan trắc môi trường. Tăng cường nguồn lực cán bộ tham gia hoạt động quan
trắc môi trường cả về số lượng và chất lượng;
- Sửa đổi, bổ sung Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg
ngày 29 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể
mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia đến năm 2020 cho phù hợp
với tình hình thực tế, tạo bước đột phá cho hoạt động quan trắc môi trường ở
cấp quốc gia; Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện mạng lưới quan trắc môi trường
quốc gia theo quy hoạch. Xây dựng và triển khai các đề án cụ thể về tăng cường
công tác quan trắc môi trương;
- Xây dựng và triển khai các đề án tăng cường
năng lực quan trắc môi trường, đặc biệt ưu tiên đối với các đề án quan trắc môi
trường lưu vực sông, vùng kinh tế trọng điểm, vùng nhạy cảm và ô nhiễm môi
trường xuyên biên giới;
- Tăng cường trao đổi, chia sẻ thông tin, số liệu
quan trắc môi trường. Đẩy mạng việc phổ biến, công khai thông tin, kết quả quan
trắc môi trường dưới nhiều hình thức;
- Tiếp tục nghiên cứu, áp dụng các công nghệ mới,
công nghệ tiên tiến và hiện đại trong quan trắc môi trường;
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quan trắc môi trường.
TỔNG QUAN HỆ THỐNG QUAN TRẮC VÀ PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG